BÍ ẨN VỀ NGÔI MỘ VÀ SỐ PHẬN NGÔ ĐÌNH DIỆM IMG_0176
(Núi An Mã)
Ngôi mộ đó được thiên táng (đã viết trong bài Lệ Thủy địa linh nhân kiệt). Thực ra khi đó chẳng ai để ý lâu ngày cây cỏ um tùm trông như một gò đất to. Đất An Mã xưa rất lạ mặc dầu không cằn cỗi (vì bây giờ người ta trồng rừng cây lên thành cổ thụ) nhưng ở đây chỉ mọc một thứ cỏ gianh xanh mướt suốt từ chân lên đến đỉnh. Mỗi khi gió thổi sóng cỏ đuổi nhau chạy lao xao từ chân núi lên. Cứ như ngàn vạn bước chân chạy lên trời vậy. Mãi đến sau này vào năm 1936 bà Ngô Đình Khả dẫn các con Ngô Đình Thục Ngô Đình Khôi Ngô Đình Diệm Ngô Đình Nhu Ngô Đình Cẩn về làng Đại Phong thăm quê hương cúng tế sửa sang cho ngôi mộ thì mọi người mới để ý đến. Lúc đó ông Ngô Đình Diệm đã được Bảo Đai bổ làm Thượng thư bộ Lại được 3 năm.
Ông Ngô Đình Khả từ ngày đỗ đạt không về làng chắc là vì lời nguyền năm xưa. Khi ông đỗ đạt triều đình cho thông tư về làng báo lên tỉnh rước sắc bằng. Song các bô lão làng Đại Phong không nhận. Lý do là trong sổ đinh làng Đại Phong không có ai tên là Ngô Đình Khả. Chuyện này chắc cũng có lý vì khi ông Ngô Đình Dinh (bố ông Khả) mất ông Khả mới 6 tuổi và được cha đạo ở làng Mỹ Phước nhận nuôi sau đó cho ra Hà Nội học. Vì chuyện này mà ông Khả giận làng Đại Phong thề sẻ không về làng và nhận làm con dân làng Phủ Cam Huế. Sau này khi hiểu ra làng Đại Phong có cử các bô lão vào Huế xin lỗi. Ông Khả thông cảm và có đóng góp tiền để dựng lại đình làng và xây nhà thờ Tây Hạ.
Xung quanh ngôi mộ đó có rất nhiều giai thoại về câu chuyện chạm long mạch làm họ Ngô khốn đốn! Thực hư không biết thế nào nhưng mấy tháng trước (2010) khi hầu chuyện một vị sư già trong đoàn chư tăng về làm lễ cầu siêu cho Lễ thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh (chôn gần đó) nhà sư nói rằng: “Âm phần ở đây còn vượng khí lắm chí ít cũng sinh công hầu khanh tướng chỉ tiếc một điều… cái điều đó tôi chưa thể nói ra nhưng khi hóng chuyện thấy rằng: Long mạch An Mã xứ Lệ linh thiêng quá nên gom lại những sự kiện dược cho là chạm long mạch ngôi mộ họ Ngô để kiểm chứng.
Lần chạm long mạch thứ nhất đấy là vào năm 1939. Khi đó một nhà tư sản lúa gạo người Đồng Hới có cái tên rất Pháp là Paul Ngọc chẳng hiểu lý do gì đã bỏ tiền mua vùng đất Ba Canh dưới chân An Mã để canh tác. Thực ra Ba Canh không phải vùng màu mỡ để sản xuất lúa gạo. Để canh tác ông Ngọc đã cho đào mương dẫn thủy. Vì vậy chạm long mạch. Lần chạm này đã dẫn đến tai vạ: Thượng thư Ngô Đình Diệm bị Bảo Đại cách chức vì trái mệnh triều đình. Thực ra ông Diệm phải chịu cái tội “giời ơi” vì ông chủ trương cải cách quản lý để giảm bớt sự lộng hành của người Pháp. Triều đình không thuận ông từ chức. Việc cách chức của triều đình chỉ là chữa thẹn mà thôi. Cùng với sự thất sủng của ông Diệm ông Ngô Đình Khôi – anh ruột ông Diệm đang làm Tổng đốc Quảng Nam bị viên phó toàn quyền Đông Pháp Nouailletas gây khó dễ. May thay thời kỳ này chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã làm công cuộc khai phá Ba Canh ngừng lại. Họ Ngô tạm yên ổn.
Lần chạm long mạch thứ 2 đấy là vào năm 1944. Khi đó người Nhật chiếm Đông Dương. Được sự giúp đỡ của một chuyên gia canh nông người Nhật ông Paul Ngọc lại khai phá Ba Canh. Lại đào kênh dẫn thủy lại chạm long mạch. Lần này xem ra tệ hơn nên đã gây đại họa cho dòng họ Ngô. Ông Ngô Đình Khôi tổng đốc Quảng Nam cùng con trai Ngô Đình Huân bị những người kháng chiến bắt thủ tiêu. Ông Ngô Đình Diệm cũng bị Việt Minh bắt. Nghe nói khi ông Diệm bị bắt cụ Hồ với chính sách mặt trận của mình có gặp và thuyết phục ông Diệm tham gia chính phủ lâm thời nhưng ông Diệm từ chối.Lý do ông Diệm từ chối là ông trách người Việt Minh đã giết anh và cháu ông. Thực ra ông Khôi chết cũng đáng vì ông Khôi khét tiếng độc ác. Khi là Tổng đốc Quảng Nam mỗi lần bắt được cộng sản nằm vùng ông tra tấn rất dã man. Ngón đòn ông đắc ý nhất là dùng lửa đốt hậu môn kẻ tình nghi. Chúng ta có thể tin rằng việc giết ông Khôi không phải lệnh từ trên mà do cơ sở tự làm vì quá phẫn nộ. Bằng chứng là khi bắt được Ngô Đình Diệm rồi cụ Hồ thuyết phục không được đã thả tự do cho ông. Sau đó vào năm 1951 ông Diệm trốn sang Mỹ ở New Jesey vận động đôc lập cho Việt Nam. Còn ông Ngô Đình Nhu bấy giờ cũng đã được ông Võ Nguyên Giáp Bộ trưởng Nội vụ chính quyền Cách mạng ký sắc lệnh số 21 ngày 8-9-1945 bổ nhiệm ông Ngô Đình Nhu làm giám đốc Nha lưu trữ công văn và thư viện toàn quốc. Nhưng ông Nhu từ chối không đến nhiệm sở.
May thay cách mạng tháng Tám thành công rồi kháng chiến chống Pháp làm sự nghiệp khai hoang của ông Ngọc bị bỏ dở. Ngày tháng trôi đi vết thương long mạch được hàn gắn họ Ngô lại phục hồi hưng vượng. Năm 1954 ông Diệm được Bảo Đại mời về làm Thủ tướng. Một năm sau trong cuộc trưng cầu ý dân ông lên làm Tổng thống chính thể đầu tiên của VNCH. Cùng với đó ông bổ nhiệm các em mình vào các vị trí cốt tử. Ngô Đình Nhu làm cố vấn đặc biệt Ngô Đình Luyện làm đại sứ VNCH tại Anh Ngô Đình Cẩn lãnh chúa Tây Nguyên. Còn ông Ngô Đình Thục trở thành Tổng giám mục chăn dắt hàng triệu tín đồ Thiên Chúa Giáo.
Lần chạm long mạch thứ ba đã tuyệt diệt dòng họ Ngô Đình. Lần này có rất nhiều giai thoại rất bí ẩn. Nguời ta nói rằng lần này là do bộ đội đào hầm hào mở đường chuẩn bị chống chiến tranh mà Ngô tổng thống hô hào “Lấp song Bến Hải Bắc Tiến”. Có người còn nói là việc đào hầm hào ở đây là có tính toán trước và được ngụy trang bằng Phong trào xây dựng là cờ đầu nông nghiệp Đại Phong. HTX này đã đưa người lên khai hoang Bến Tiến dưới chân An Mã đào kênh đẫn thủy chạm long mạch. Cùng lúc đó còn có một tiểu đoàn bộ đội đào hầm hào ở đồi An Mã. Sau 100 ngày đào bới làm đứt long mạch ngôi mộ gia đình họ Ngô tuyệt mệnh anh em Diệm Nhu bị quân đảo chính bắn chết. Mỗi lần đi ấy đều xuất phát từ đình làng Đại Phong chèo thuyền đi vào ban đêm. Có lần tướng Nguyễn Chí Thanh đi cùng hò khoan hò hụi rất vui vẻ. Có giai thoại nói rằng có một ông thầy địa lý gầy gò mặc chiếc áo rộng thùng thình đội cái mũ sụp xuống đi cùng tướng Thanh. Có người đoán đó là ông Cả Đạt. Nhưng chắc không phải vì ông Cả Đạt mất trước năm 1963. Có lẽ vì ông là người được ví như Cao Biền của xứ Nghệ nên nguời ta đoán già đoán non vậy thôi.
Có giai thoại nói rằng những năm đó với sự giúp đỡ của nguời Tàu Việt Nam đã mở đường Trường Sơn vào Nam để tiếp tế cho chiến trường. Trong đó có việc định xây dựng các công binh xưởng ở Ba Canh An Mã để sản xuất vũ khí tại chỗ. Vì vậy xây dựng Đại Phong chỉ là cái cớ ngụy trang mà thôi. Ai lại đi cử một ông đại tướng đi làm nông nghiệp. Khai hoang Bến Tiến chỉ cho sản phẩm là sắn. Vả lại đất đồng bằng sông Hồng thiếu gì nơi màu mỡ mà vào tận cái vùng “khỉ ho cò gáy” “cóc đái một bãi là ngập lụt” ấy để xây dựng là cờ đầu nông nghiệp.
Có người nói chọn Đại Phong là một đòn chính trị vì Đại Phong là quê hương ông Diệm. Những năm đó ông Diệm cứ hô hào “lấp sông Bến Hải Bắc tiến”. Xây dựng Đại Phong là để nói với ông Diệm rằng: quên hương ông đang giàu lên nhờ cách mạng cớ sao ông định đem xe tăng ra càn lúa. Chẳng biết mô tê gì nhưng thời đó dân Đại Phong sướng thiệt thóc lúa ăn không hết gửi kho HTX.
Thôi thì lắm thầy nhiều ma sự thật vẫn là sự thật. Tôi đã đọc trong "Ô Châu cận lục" của Dương Văn An bản dịch của cụ Bùi Lương do nhà Văn hóa Á châu xuất bản năm 1961 phần Địa Lý ở trang 42 có ghi "huyện Nha Nghi có 80 huyệt". Đây là các huyệt đạo mà các thầy địa lý xác định. Công cuộc khai hoang bến Tiến là có thật giờ là nông trường Đại Giang. Thậm chí là địa danh trong bài Quảng Bình ca “có ai về Đại Phong Xin vô ghé thăm vùng Bến Tiến”. Núi an Mã còn đó với những hầm hào lở loét quanh mình. Trong chiến tranh người ta còn lùa trâu bò vô những hầm ngầm kiên cố bằng bê tong để tránh bom Mỹ. HTX Đại Phong sau năm 1963 thì cũng “lặng gió”. Ông Nguyễn Ngọc Ánh chủ nhiệm đầu tiên được phong anh hùng lao động rồi điều lên huyện. Người kế nhiệm là ông Đặng Ngọc Đính năm nay đã 82 tuổi 60 tuổi đảng còn đó làm nhân chứng sống. Ông vẫn lặng lẽ cứ đến ngày sóc vọng thắp hương cho tướng Nguyễn Chí Thanh tại gian thờ trên tầng 2 nhà văn hóa làng. Gia đình họ Ngô nghe đâu còn bà Trần Lệ Xuân (vợ ông Nhu) sống một mình trong một căn hộ gần tháp Effen bên Pháp. Ông Ngô Đình Trác là kỹ sư canh nông lấy vợ người Ý có 3 trai 1 gái. Ông Ngô Đình Quỳnh thì không lấy vợ sống tại Bỉ. Cô út Ngô Đình Lệ Quyên tiến sỹ luật lấy chồng ở Ý. Ngôi mộ kết phát đế vương của dòng họ Ngô ở An Mã vẫn còn đó khói lạnh hương tàn.
Về Lệ Thủy gần đây thoáng buồn về những than phiền trẻ con chăn trâu ở các khu mồ mả cứ thấy người viếng mộ là đổ ra xin tiền. Xôi chuối không lấy chỉ xin tiền nếu không cho thì đập phá mồ mả không biết đời sau có sao không? Chính quyền ở đâu!!!
 
(Vừa đúng 2 tháng tức là 60 ngày kể từ khi công bố bài viết này vào ngày 24 tháng 4 năm 2011 bà Trần Lệ Xuân phu nhân ông Ngô Đình Nhu đã qua đời ở Italia thọ 87 tuổi.)